Bộ Y tế vừa ban Hành hướng dẫn tạm thời giám sát và phòng, chống COVID-19 xác định F0, F1, F2 để áp dụng tại các cơ sở y tế dự phòng và khám, chữa bệnh trên toàn quốc. Trong đó, hướng dẫn quy định rõ các khái niệm F0, F1, F2. Đặc biệt, không phải trường hợp nào tiếp xúc với F0 cũng bị coi là F1.

Trước đây, quy định phân loại F0, F1 được Bộ Y tế nêu trong phác đồ điều trị, tuy nhiên trong hướng dẫn mới nhất ngày 30.7, Bộ Y tế phân rõ hơn, khoanh chặt hơn các điều kiện. Cụ thể:
Ca bệnh nghi ngờ
Là người có ít nhất 2 trong số các biểu hiện sau đây: Sốt, ho, đau họng, khó thở, đau người, mệt mỏi, ớn lạnh, giảm hoặc mất vị giác hoặc khứu giác. Trường hợp thứ 2 là người có kết quả xét nghiệm sàng lọc dương tính với virus SARS-CoV-2 qua test nhanh.
Trong khi tại phác đồ chẩn đoán và điều trị lần 6 của Bộ Y tế cập nhật vào ngày 14.7 vừa qua, khái niệm ca bệnh nghi ngờ mở rộng hơn. Trong đó quy định người bệnh chỉ cần có sốt kèm (hoặc) viêm đường hô hấp cấp tính không lý giải được nguyên nhân. Hoặc các trường hợp có bất kỳ một triệu chứng hô hấp nào và có tiền sử đến/qua/ở/về từ vùng dịch tễ, ổ dịch. Người tiếp xúc với ca bệnh nghi ngờ hoặc F0 đã được xác định mắc COVID-19 trong 14 ngày trước khi khởi phát triệu chứng.
Ca bệnh F0 xác định
Là trường hợp có kết quả xét nghiệm PCR dương tính tại các cơ sở xét nghiệm khẳng định đã được Bộ Y tế cấp phép. Trước đây, trong phác đồ cập nhật lần 5 ban hành ngày 26.4, Bộ Y tế từng quy định F0 bao gồm cả trường hợp nghi ngờ và trường hợp có xét nghiệm PCR dương tính. Tuy nhiên, phác đồ lần 6 đã bỏ nội dung đầu.
Trường hợp F1
Là người có tiếp xúc gần trong vòng 2 m hoặc trong cùng không gian kín tại nơi lưu trú, làm việc, cùng phân xưởng, học tập, sinh hoạt, vui chơi giải trí… hoặc trong cùng khoang trên phương tiện vận chuyển với F0 trong thời kỳ lây truyền của F0. Trường hợp F1 được phân thành 2 cấp bậc gồm:
Nếu tiếp xúc với F0 có triệu chứng:
Một người chỉ trở thành F1 khi tiếp xúc trong vòng 3 ngày trước khi F0 khởi phát triệu chứng cho đến khi được cách ly y tế. Tiếp xúc trước đó trên 4 ngày đều không được tính. Thời điểm F0 khởi phát bệnh được tính là ngày bắt đầu có triệu chứng bất thường về sức khoẻ theo các dấu hiệu phía trên.
Nếu tiếp xúc với F0 không triệu chứng, chia thành 2 trường hợp:
Trường hợp 1, F0 đã xác định được nguồn lây:
Một người chỉ trở thành F1 khi tiếp xúc với F0 trong khoảng thời gian từ khi F0 tiếp xúc lần đầu với nguồn lây đến khi được cách ly y tế.
Ví dụ: A. có kết quả khẳng định dương tính với SARS-CoV-2 và chuyển cách ly ngày 1/8. Qua truy vết, A. tiếp xúc với nguồn lây từ ngày 25/7. Một người được xác định là F1 của A. nếu tiếp xúc với A. trong các ngày từ 25/7 đến 1/8.
Trường hợp 2, F0 chưa xác định được nguồn lây:
F1 là người tiếp xúc với F0 trong khoảng thời gian 14 ngày trước khi F0 được lấy mẫu xét nghiệm khẳng định dương tính cho đến khi F0 được cách ly y tế.
Ví dụ: A. có kết quả khẳng định dương tính với SARS-CoV-2 và chuyển cách ly ngày 1/8. Qua truy vết, A. không rõ tiếp xúc với nguồn lây khi nào. Một người được xác định là F1 của A. nếu tiếp xúc với A. 14 ngày trước tính từ ngày 1/8, tức là tiếp xúc với A từ 18/7 đến 1/8
Một số nhóm người tiếp xúc gần thường gặp gồm:
– Người sống trong cùng hộ gia đình, cùng nhà, cùng phòng.
– Người trực tiếp chăm sóc, đến thăm hoặc người điều trị cùng phòng với ca bệnh xác định.
– Người cùng nhóm làm việc hoặc cùng phòng làm việc.
– Người cùng nhóm có tiếp xúc với ca bệnh: nhóm du lịch, công tác, vui chơi, buổi liên hoan, cuộc họp, lớp học, cùng nhóm sinh hoạt tôn giáo, cùng nhóm sinh hoạt các câu lạc bộ, trên cùng một phương tiện giao thông…
Ngoài trường hợp tiếp xúc gần ca F0 xác định, F1 cũng được tính ngay cả khi tiếp gần dưới 2m với trường hợp nghi nhiễm; sống cùng nhà với trường hợp bệnh nghi ngờ; làm việc cùng nhóm hoặc cùng phòng với ca bệnh nghi ngờ.
Trường hợp F2
Là người tiếp xúc gần trong vòng 2 m với F1 trong khoảng thời gian từ khi F1 có khả năng lây nhiễm từ ca bệnh (F0) cho đến khi F1 được cách ly y tế.
Với quy định mới của Bộ Y tế về xác định F0, F1, F2, các địa phương, các cơ sở y tế sẽ thuận lợi hơn trong việc phân loại các trường hợp nghi ngờ, các trường hợp liên quan để sắp xếp việc cách ly y tế phù hợp.
Xử trí 4 mức nguy cơ do mắc COVID-19
Ngoài việc xác định F0, F1, F2, Bộ Y tế cũng đã ban hành Quyết định về Tiêu chí phân loại nguy cơ người nhiễm SARS-CoV-2. Việc phân loại mức độ nguy cơ của các trường hợp F0 thành 4 nhóm dưới đây sẽ giúp ngành y tế tránh quá tải, lúng túng trong điều trị khi số ca mắc COVID-19 ngày càng tăng.
Mức nguy cơ thấp (màu xanh)
Là các F0 tuổi ≤ 45 tuổi và không mắc bệnh lý nền; hoặc đã tiêm đủ 2 liều vaccine phòng COVID-19 trước ngày xét nghiệm dương tính ít nhất 12 ngày; hoặc sức khoẻ chưa có dấu hiệu bất thường, SpO2 từ 97% trở lên.
Nhóm này được chuyển đến cơ sở thuộc “Tầng 1 của tháp điều trị”, các cơ sở cách ly người nhiễm F0 tập trung, cơ sở thu dung điều trị COVID-19 ban đầu. Hoặc chỉ định điều trị ngoại trú tại nơi cư trú được nhân viên y tế, chính quyền địa phương kiểm tra và xác nhận đủ điều kiện điều trị ngoại trú như biệt thự, nhà riêng, có người theo dõi….
Đồng thời yêu cầu người nhiễm SARS-CoV-2 tự theo dõi sức khoẻ và thông báo tình trạng sức khoẻ hằng ngày cho nhân viên y tế địa phương. Hướng dẫn liên lạc ngay với nhân viên y tế khi có tình trạng cấp cứu. Đánh giá lại mức độ nguy cơ hằng ngày, chuyển màu/mức nguy cơ phù hợp.
Mức nguy cơ trung bình (màu vàng)
Là các F0 tuổi từ 46-64 tuổi và không mắc bất kỳ bệnh lý nền; hoặc sức khoẻ có dấu hiệu bất thường như sốt (từ 37,5 độ C trở lên), ho, đau họng, rát họng, đau ngực…; hoặc SpO2 từ 95% đến 96%; hoặc tuổi ≤ 45 tuổi và mắc một trong các bệnh lý nền.
Nhóm này được chuyển vào cơ sở thuộc “Tầng 2 của tháp điều trị”, các bệnh viện dã chiến thu dung, điều trị người bệnh COVID-19.
Trong thời gian chờ nhập viện, yêu cầu người nhiễm SARS-CoV-2 tiếp tục tự theo dõi sức khoẻ; hướng dẫn liên lạc ngay với nhân viên y tế khi có tình trạng cấp cứu. Đánh giá lại mức độ nguy cơ hằng ngày, chuyển màu/mức nguy cơ phù hợp.
Mức nguy cơ cao (màu cam)
Là các F0, tuổi từ 65 trở lên và không mắc bệnh lý nền; hoặc phụ nữ có thai; hoặc trẻ em dưới 5 tuổi; hoặc SpO2 từ 93% đến 94%.
Nhóm này được chỉ định nhập viện càng sớm càng tốt, chuyển đến bệnh viện thuộc “Tầng 3 của tháp điều trị”, các bệnh viện điều trị COVID-19 nặng.
Mức nguy cơ rất cao (màu đỏ)
Là các F0 tuổi từ 65 tuổi trở lên và mắc một trong các bệnh lý nền; hoặc người bệnh trong độ tuổi bất kỳ đang trong tình trạng cấp cứu; hoặc SpO2 từ 92% trở xuống; hoặc người bệnh đang có tình trạng thở máy, đang có ống mở khí quản, liệt tứ chi, hoặc đang điều trị hóa xạ trị.
Nhóm này có chỉ định nhập viện ngay đến bệnh viện thuộc “Tầng 3 của tháp điều trị”, các bệnh viện điều trị COVID-19 nặng. Xử trí tình trạng cấp cứu trước, trong và sau khi vận chuyển đến bệnh viện.
Hướng dẫn của Bộ Y tế cũng lưu ý việc phân loại theo các mức độ nguy cơ cần căn cứ vào tình hình dịch bệnh, công tác thu dung và kết quả điều trị, ngành y tế từng địa phương có thể kịp thời điều chỉnh, bổ sung phân loại nguy cơ nếu thấy cần thiết để có biện pháp xử trí người bệnh nhanh chóng, an toàn, hiệu quả.
Nhân viên y tế cần xử trí phân loại nhanh người nhiễm SARS-CoV-2, ưu tiên tất cả những người được phân loại mức ”nguy cơ rất cao” được đưa đến cơ sở y tế phù hợp gần nhất.
Quý bệnh nhân có nhu cầu tư vấn sức khỏe trực tuyến, xin hãy liên hệ với Bác sĩ Luân. Số điện thoại/Zalo 0395621593 hoặc Fanpage Bác sĩ Luân – Bệnh viện Yên Lạc để được hỗ trợ.
Bác sĩ Nguyễn Văn Luân